Nước Mỹ được đánh dấu bằng bước chân đầu tiên của nhà thám hiểm Christopher Columbus, khi ông đến Puerto Rico ngày 19 tháng 11 năm 1493 và là người da trắng đầu tiên tiếp xúc với người thổ dân châu Mỹ. Trải qua nhiều đợt di cư, chiến tranh thâu tóm lãnh thổ… những người châu Âu đi “mở đất” đã vô tình lập quốc trên một vùng đất thịnh vượng và họ nhanh chóng trở thành một quốc gia hùng cường trong nhiều thế kỷ.
Nhưng bắt đầu từ năm 2010, nhiều chiêm tinh gia đều có chung nhận định rằng Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ thịnh vượng sẽ suy yếu và một tương lai không yên ổn đang chờ đợi họ.
Quốc khánh Hoa Kỳ là ngày 04/07/1776. Qua đối chiếu lịch sử nước Mỹ, thời gian tử vi 2:12 AM theo đề xuất của chiêm tinh gia người Úc Douglas Parker là tương đối phù hợp.
Để dễ theo dõi, bạn nên quan sát sơ đồ chiêm tinh và chú ý vào các ô người viết đã tô màu cho hình tròn bên cạnh các cung liên quan.
Sơ đồ chiêm tinh tử vi cho nước Mỹ
NHÌN LẠI LỊCH SỬ
Để bài viết ngắn gọn dễ hiểu, người viết chỉ xem hai ngôi sao chính liên quan đến chiến tranh và sự thay đổi Chính phủ là Pluto (Diêm Vương) và Uranus (Thiên Vương) với quãng thời gian tính bằng năm.
Sao tử vi Hoa Kỳ nằm tại cung số 2, hội cùng Kim tinh (Venus), Mộc tinh (Jupiter) nên có một cục diện thịnh vượng, tốt đẹp. Trong khi đó Hỏa tinh (Mars) lại hội ngộ cùng Thiên Vương (Uranus) nên tiềm lực sức mạnh quân sự được nuôi dưỡng đầy đủ. Nhưng điều nguy hiểm là mỗi khi Hỏa tinh đến thời kỳ hội ngộ cùng Thiên Vương thì mức độ thiệt hại bởi quân sự là rất lớn.
Phần 1: Chiêm tinh về chiến tranh
* Chiến tranh có mức độ khốc liệt:
Tính từ năm 1776 đến nay, Thiên Vương tinh đã ba lần chiếu trên bầu trời nước Mỹ và cả ba lần này đều có chiến tranh ở mức độ lớn.
- Năm 1772-1779: Chiến tranh dẫn đến Cách mạng Mỹ
Căng thẳng giữa mười ba thuộc địa Mỹ và người Anh trong giai đoạn cách mạng trong thập niên 1760 và đầu thập niên 1770 đưa đến cuộc Chiến tranh Cách mạng Mỹ nỗ ra từ năm 1775 cho đến năm 1781. Ngày 14 tháng 6 năm 1775, Đệ nhị Quốc hội Lục địa nhóm họp tại Philadelphia đã thành lập một Quân đội Lục địa dưới quyền tư lệnh của George Washington và đã tuyên bố rằng “tất cả con người được sinh ra đều có quyền bình đẳng” và được ban cho “một số quyền bất khả nhượng.” Quốc hội chấp thuận bản Tuyên ngôn Độc lập mà phần nhiều là do Thomas Jefferson thảo, vào ngày 4 tháng 7 năm 1776. Năm 1777, Những Điều khoản Liên hiệp được chấp thuận, thống nhất các tiểu bang dưới một chính phủ liên bang lỏng lẻo mà hoạt động cho đến năm 1788. Khoảng 70.000–80.000 người trung thành với Vương miện Anh đào thoát khỏi các tiểu bang nổi loạn, nhiều người đến Nova Scotia và những vùng Vương quốc Anh mới chiếm được tại Canada. Người bản thổ Mỹ bị chia rẽ vì liên minh với hai phía đối nghịch đã sát cánh bên phía của mình trên mặt trận phía tây của cuộc chiến.
- Năm 1856-1863: Nội chiến Hoa Kỳ
Một loạt các cuộc tiến công quân sự của Hoa Kỳ vào Florida đưa đến việc Tây Ban Nha nhượng lại vùng đất Florida và nhiều lãnh thổ duyên hải Vịnh Mexico khác cho Hoa Kỳ năm 1819. Hoa Kỳ sát nhập Cộng hòaTexasnăm 1845. Khái niệm về Vận mệnh hiển nhiên (Manifest Destiny) rất phổ biến đối với công chúng trong suốt thời kỳ này. Hiệp ước Oregon với Anh năm 1846 đưa đến việc Hoa Kỳ kiểm soát vùng mà ngày nay là Tây Bắc Hoa Kỳ. Chiến thắng của Hoa Kỳ trong Chiến tranh Mexico-Mỹ năm 1848 đưa đến việc Mexico nhượng lại California và phần nhiều những vùng đất mà ngày nay là Tây Nam Hoa Kỳ. Cơn sốt vàng California năm 1848–1849 càng hấp dẫn di dân về miền tây
Căng thẳng giữa các tiểu bang tự do và các tiểu bang có chế độ nô lệ chất chồng với những bất đồng ngày một gia tăng trong quan hệ giữa chính phủ liên bang và các chính quyền tiểu bang cùng với những cuộc xung đột bạo lực về việc mở rộng chế độ nô lệ vào các tiểu bang mới thành lập. Abraham Lincoln, ứng viên của Đảng Cộng hòa là đảng mà phần đông chống chủ nghĩa nô lệ, được bầu làm tổng thống năm 1860. Trước khi ông nhậm chức, bảy tiểu bang có chế độ nô lệ tuyên bố ly khai khỏi Hoa Kỳ và thành lập Liên minh các tiểu bang miền nam Hoa Kỳ. Chính phủ liên bang luôn cho rằng việc ly khai là bất hợp pháp, và khi quân Liên minh tấn công Đồn Sumter, Nội chiến Hoa Kỳ bắt đầu và thêm bốn tiểu bang có chế độ nô lệ gia nhập Liên minh. Liên bang trả tự do cho các nô lệ thuộc Liên minh khi Quân đội Liên bang tiến qua miền nam.Sau chiến thắng của Liên bang năm 1865, ba tu chính án được thêm vào Hiến pháp Hoa Kỳ bảo đảm quyền tự do cho gần 4 triệu người Mỹ gốc châu Phi từng là nô lệ, cho họ quyền công dân, và cho họ quyền bầu cử. Cuộc chiến và giải pháp của nó mang đến sự gia tăng quyền lực đáng kể của chính phủ liên bang.
- Năm 1940-1947: Tham gia Chiến tranh Thế giới thứ hai
Ngày 7 tháng 12 năm 1941, Hoa Kỳ tham chiến chống Phe Trục sau một vụ tấn công Trân Châu Cảng bất ngờ của Nhật Bản. Đệ nhị Thế chiến tiêu hao nhiều tiền của hơn bất cứ cuộc chiến nào trong Lịch sử Hoa Kỳ, nhưng nó đã đẩy mạnh nền kinh tế bằng cách cung cấp sự đầu tư vốn và công việc làm trong khi đưa nhiều phụ nữ vào thị trường lao động. Các hội nghị của phe Đồng Minh tại Bretton Woods và Yalta đã phát thảo ra một hệ thống mới các tổ chức liên chính phủ mà đặt Hoa Kỳ và Liên Xô ở tâm điểm của những vấn đề liên quan đến thế giới. Khi chiến thắng đạt được tại châu Âu, một hội nghị quốc tế năm 1945 được tổ chức tại San Francisco đã cho ra đời bản Hiến chương Liên Hiệp Quốc mà bắt đầu hoạt động sau chiến tranh. Hoa Kỳ là nước đầu tiên phát triển vũ khí nguyên tử và đã sử dụng chúng trên hai thành phốHiroshimavàNagasakicủa Nhật Bản vào tháng tám. Nhật Bản đầu hàng vào ngày 2 tháng 9, kết thúc Đệ nhị Thế chiến.
Bảng sao Pluto, Uranus chiếu trên bầu trời nước Mỹ
* Chiến tranh có mức độ nhỏ, trung bình:
Những cuộc chiến có mức độ nhỏ, trung bình, do cung Hỏa bị sao Diêm Vương hoặc Diêm Vương hội chiếu từ các cung 7, 8, 9.
- Thiên Vương hội chiếu 1814-1821 và Diêm Vương hội chiếu 1813-1828:
Sự hăng hái mở rộng lãnh thổ của người Mỹ về phía tây đã khởi sự một loạt Các cuộc chiến tranh với người bản thổ Mỹ kéo dài cho đến cuối thế kỷ 19 khi người bản thổ Mỹ bị tước đoạt hết đất đai của họ. Việc mua vùng đất Louisiana, lãnh thổ mà Pháp tuyên bố chủ quyền, được thực hiện dưới thời Tổng thống Thomas Jefferson năm 1803 đã thực sự làm tăng gấp đôi diện tích Hoa Kỳ. Chiến tranh năm 1812, được tuyên chiến với Anh vì nhiều bất đồng, không phân thắng bại, đã làm gia tăng chủ nghĩa quốc gia của người Mỹ. Một loạt các cuộc tiến công quân sự của Hoa Kỳ vào Florida đưa đến việc Tây Ban Nha nhượng lại vùng đất Florida và nhiều lãnh thổ duyên hải Vịnh Mexico khác cho Hoa Kỳ năm 1819.
- Thiên Vương hội chiếu 1898-1905:
Năm 1893, Vương quyền của Vương quốc Hawaii Thái Bình Dương bị lật đổ trong một cuộc đảo chính do cư dân người Mỹ lãnh đạo; quần đảo bị sát nhập vào Hoa Kỳ năm 1898. Chiến thắng trong Chiến tranh Tây Ban Nha-Mỹ cũng trong năm đó chứng tỏ rằng Hoa Kỳ là một siêu cường chính của thế giới và kết quả là việc sát nhập Puerto Rico, Guam vàPhilippines.
- Thiên Vương hội chiếu 1982-1989 và Diêm Vương hội chiếu 1993-2008:
+ Khủng bố ngày 11 tháng 9 năm 2001.
+ Năm 2001, Hoa Kỳ đã lãnh đạo một cuộc tiến công của NATO vào Afghanistan lật đổ chính phủ Taliban và phá hủy các trại huấn luyện khủng bố của al-Qaeda.
+ Năm 2002, chính phủ Bush bắt đầu gây áp lực cho sự thay đổi chế độ tạiIraqvới các lý do gây nhiều tranh cãi. Thiếu sự phụ trợ của NATO, Bush thành lập một Liên minh tự nguyện và Hoa Kỳ xâm chiếm Iraq năm 2003, lật đổ nhà độc tài Saddam Hussein khỏi quyền lực.
Phần 2: Chiêm tinh về sự thay đổi chính trị, dân sự
Sự thay đổi Chính phủ nó đi theo hai hướng, một là sự phát triển thuận lợi do được các ngôi sao tốt hội chiếu, hai là dẫn tới sự thay đổi thể chế có nguyên nhân từ nội chiến, đảo chính… bởi sự chi phối của ngôi sao xấu. Và điều “may mắn” là kể từ khi lập quốc đến nay họ ít bị các bại tinh soi chiếu.
- Từ năm 1779-1786: Độc lập khỏi nước Anh
Căng thẳng giữa mười ba thuộc địa Mỹ và người Anh trong giai đoạn cách mạng trong thập niên 1760 và đầu thập niên 1770 đưa đến cuộc Chiến tranh Cách mạng Mỹ nỗ ra từ năm 1775 cho đến năm 1781. Ngày 14 tháng 6 năm 1775, Đệ nhị Quốc hội Lục địa nhóm họp tại Philadelphia đã thành lập một Quân đội Lục địa dưới quyền tư lệnh của George Washington và đã tuyên bố rằng “tất cả con người được sinh ra đều có quyền bình đẳng” và được ban cho “một số quyền bất khả nhượng.” Quốc hội chấp thuận bản Tuyên ngôn Độc lập mà phần nhiều là do Thomas Jefferson thảo, vào ngày 4 tháng 7 năm 1776. Năm 1777, Những Điều khoản Liên hiệp được chấp thuận, thống nhất các tiểu bang dưới một chính phủ liên bang lỏng lẻo mà hoạt động cho đến năm 1788. Khoảng 70.000–80.000 người trung thành với Vương miện Anh đào thoát khỏi các tiểu bang nổi loạn, nhiều người đến Nova Scotia và những vùng Vương quốc Anh mới chiếm được tại Canada.
au khi các lực lượng Mỹ với sự giúp đỡ của người Pháp đánh bại quân đội Anh, Vương quốc Anh công nhận chủ quyền của mười ba tiểu bang vào năm 1783. Một hội nghị hiến pháp được tổ chức năm 1787 bởi những người muốn thành lập một chính phủ quốc gia mạnh hơn với quyền lực trên các tiểu bang. Vào tháng 6 năm 1788, chín tiểu bang đã thông qua bản Hiến pháp Hoa Kỳ, đủ để thành lập một chính phủ mới; Thượng và Hạ viện đầu tiên của cộng hòa, và Tổng thống George Washington nhậm chức năm 1789.
- Từ năm 1863-1870: Thành lập Liên Bang Hoa Kỳ.
Căng thẳng giữa các tiểu bang tự do và các tiểu bang có chế độ nô lệ chất chồng với những bất đồng ngày một gia tăng trong quan hệ giữa chính phủ liên bang và các chính quyền tiểu bang cùng với những cuộc xung đột bạo lực về việc mở rộng chế độ nô lệ vào các tiểu bang mới thành lập. Abraham Lincoln, ứng viên của Đảng Cộng hòa là đảng mà phần đông chống chủ nghĩa nô lệ, được bầu làm tổng thống năm 1860. Trước khi ông nhậm chức, bảy tiểu bang có chế độ nô lệ tuyên bố ly khai khỏi Hoa Kỳ và thành lập Liên minh các tiểu bang miền nam Hoa Kỳ. Chính phủ liên bang luôn cho rằng việc ly khai là bất hợp pháp, và khi quân Liên minh tấn công Đồn Sumter, Nội chiến Hoa Kỳ bắt đầu và thêm bốn tiểu bang có chế độ nô lệ gia nhập Liên minh. Liên bang trả tự do cho các nô lệ thuộc Liên minh khi Quân đội Liên bang tiến qua miền nam. Sau chiến thắng của Liên bang năm 1865, ba tu chính án được thêm vào Hiến pháp Hoa Kỳ bảo đảm quyền tự do cho gần 4 triệu người Mỹ gốc châu Phi từng là nô lệ, cho họ quyền công dân, và cho họ quyền bầu cử. Cuộc chiến và giải pháp của nó mang đến sự gia tăng quyền lực đáng kể của chính phủ liên bang.
- Từ năm 1947-1954: Chiến tranh lạnh và cuộc cách mạng khoa học không gian.
Hoa Kỳ và Liên Xô tranh giành vị thế sau Đệ nhị Thế chiến trong Chiến tranh lạnh, chi phối các vấn đề quân sự của châu Âu bằng Tổ chức Liên phòng Bắc Đại Tây Dương (NATO) và Hiệp ước Warsaw. Hoa Kỳ quảng bá dân chủ tự do và chủ nghĩa tư bản trong khi Liên Xô cổ vũ chủ nghĩa cộng sản và một nền kinh tế kế hoạch tập quyền.
- Từ năm 1918-1933: Khủng hoảng kinh tế, nâng quyền dân sự.
Năm 1920, phong trào nữ quyền đã giành được chiến thắng để một tu chính án hiến pháp ra đời cho phép phụ nữ quyền bầu cử. Một phần vì có nhiều người phục vụ trong chiến tranh nên người bản thổ Mỹ giành được quyền công dân Hoa Kỳ theo Đạo luật Công dân dành cho người bản thổ Mỹ năm 1924.
Nợ gia tăng và thị trường chứng khoán lạm phát đã tạo ra sự sụp đổ của thị trường chứng khoán năm 1929 và khởi sự cho Đại khủng hoảng. Sau khi đắc cử tổng thống năm 1932, Franklin Delano Roosevelt đã đối phó với tình trạng trên bằng kế hoạch gọi là New Deal. Đó là một loạt các chính sách gia tăng quyền hạn can thiệp của chính phủ vào nền kinh tế. Bão cát giữa thập niên 1930 đã làm cho các cộng đồng nông trại trắng tay và khích lệ một làn sóng mới di dân về miền tây.
- Từ năm 2008-2023: Khủng hoảng kinh tế năm 2008