Anh Thiên Sứ thân mến !.
Cám ơn anh đã chỉ dẫn tới những bài viết đó. Tôi có đọc, nhưng chưa hết. song tới đây, thấy rằng cần thiết phải hiểu rõ hơn, nên muốn hỏi lại anh cho cụ thể. Tôi trích lại phần này - đây đủ:
Có thể nói rằng: Nếu nền văn minh Hoa Hạ – mà đại biểu là Khổng An Quốc và Lưu Hâm – có thể áp đặt một cách chủ quan; hiện tượng con Long Mã xuất hiện trên sông Hoàng Hà trên lưng mang Hà đồ và con thần Qui xuất hiện trên sông Lạc mang Lạc thư vào việc giải thích nội dung câu trên trong Hệ từ; thì câu trên cũng có thể giải thích hợp lý hơn là:
Sự vận động của Thiên Hà là cơ sở của nền thiên văn học Lạc Việt. Đó chính là thực tại của nền lý học Đông phương. Những qui luật vận động và tương tác của nó do các bậc trí giả Lạc Việt chép trong sách của nền văn minh này; nên gọi là Lạc Thư. Tức là sách của nền văn minh Lạc Việt.
Hai cách giải thích này khác nhau hoàn toàn ở chỗ:
Cách giải thích của Hán nho đã không thể chứng minh được sự lý giải của mình; không phải chỉ vài chục; vài trăm năm mà là hàng thiên niên kỷ.
Ngược lại; cách giải thích từ nền văn minh Lạc Việt hoàn toàn có khả năng minh chứng một cách hoàn hảo và chứng tỏ được một nền văn hiến huy hoàng trong quá khứ đến nay trải gần 5000 năm (2789 trước CN – 2005 sau CN).
Để chứng tỏ điều này; quí vị quan tâm xem hình dưới đây:
Sự giải mã cho hình ảnh này sẽ là phần nhập đề cho nội dung chính của tiểu luận này. Nhưng người viết xin được lưu ý các quí vị quan tâm là:
Tất cả những sự giải mã các hiện tượng văn hóa dân gian Việt Nam để tìm vào sự bí ẩn văn hóa Đông phương; Người viết đều không coi là bằng chứng trực tiếp chứng minh cho “cội nguồn văn hóa Đông phương thuộc về người Lạc Việt”. Sự giải mã này chỉ có tính hướng dẫn – khi sự giải mã đúng – để khám phá bản chất đích thực của nền văn minh huyền bí này. Chỉ khi sự khám phá được sáng tỏ thì chính tính chân lý của sự việc sẽ là bằng chứng chứng minh cho luận điểm trên.
Hình trích dẫn ở trên; hoàn toàn không xa lạ với người Việt. Trong bức tranh này; điều dễ nhận thấy nhất là: Ngũ Hổ được vẽ với 5 màu của Ngũ Hành sắp theo chiều tương sinh với Hổ vàng lớn hơn hẳn đứng uy nghi ở giữa. Trên đầu Hổ vàng; dưới mặt trời đỏ rực có 7 chấm trắng huyễn ảo. Chân Hổ vàng trấn lên một miếng phù có ghi: “Pháp đại uy nỗ”.Hai bên Hổ Vàng: bên phải có 5 thanh kiếm; bên trái có 5 lá cờ lệnh. Chung quanh phía trên là những đám mây vần vũ huyễn ảo; phía dưới là hai tảng núi cách điệu đối xứng cho hai Ngài Hổ đứng. Đặc biệt những cặp mắt hổ trong tranh đều mở to với màu sắc tương phản tạo cảm giác sáng rực đầy uy dũng. Phong cách vẽ của bức tranh tuy nặng tính qui ước; nhưng hình tượng rất có thần. Chính tính qui ước của những hình tượng đã cho thấy sự suy nghĩ của người sáng tạo ra nó phải gửi gấm vào đây một ý tưởng.
Đó là ý tưởng gì?
Nếu chúng ta lấy cửu cung chồng lên tranh Ngũ Hổ thì chúng ta sẽ nhận thấy ngay đây chính là hình Ngũ hành tương sinh của Cửu cung Hà đồ. Xin quí vị xem hình dưới đây:
Hình Ngũ Hổ trang 29/ "Tính minh triết trong tranh dân gian Việt Nam."
Như vậy; hình tượng Ngũ Hổ với 5 màu của Ngũ hành chính là thể hiện nội dung của Hà Đồ cửu cung. Nhưng nếu mọi việc chỉ dừng ở đây thì đấy là điều mà ai cũng biết:
“Hà đồ thể hiện qui luật Ngũ hành tương sinh”. Vấn đề tiếp theo khác hẳn sự miêu tả của cổ thư chữ Hán cho rằng “Long Mã hiện trên sông Hoàng Hà mang Hà đồ” là: Hình bẩy chấm trên đầu ông Hổ vàng.
Người viết bài này đã sưu tầm được rất nhiều tranh Hổ của phường hàng Trống thì nhận thấy rằng: Hầu hết các tranh Hổ (Vẽ đơn hay Ngũ Hổ) đều có đủ 7 chấm như hình vẽ trên (Xin tham khảo thêm: ”Tính minh triết trong tranh dân gian Việt Nam”. Tủ sách Tuvilyso). Mặc dù với thời gian lưu truyền có nhiều tranh vẽ không theo một qui luật nhất định; nhưng đều có hình tượng tương tự. Điều đặc biệt hơn nữa là: Trên lưng ông Khiết (Dân gian thường gọi là: Con Cóc Tàu) cũng có 7 chấm tương tự. Và điều may mắn là người viết đã phát hiện 7 chấm này chính là biểu tượng của chòm sao Tiểu Hùng Tinh; chòm sao định hướng Bắc trên bầu trời. Xin quí vị xem hình dưới đây:
Hình trang 33.Tính minh triết trong tranh dân gian Việt Nam.
Qua hình minh hoạ chứng minh ở trên; quí vị quan tâm cũng nhận thấy rằng:
Biểu tượng 7 chấm với gạch nối trên lưng Ông Khiết (Con cóc Tàu) và bẩy chấm trên tranh thờ ngũ hổ hoàn toàn gần như trùng khớp về hình tượng với sự miêu tả chòm sao Thiên Cực Bắc trên bầu trời thiên văn hiện đại.Tại sao Tranh Ngũ Hổ lại có hình tượng của chòm sao Thiên Cực Bắc trên bầu trời? Phải chăng đây chính là một mật ngữ cho thấy Hà Đồ liên quan đến bầu trời mà ở đó có sự vận động của các thiên thể? Và phải chăng chính ở đây; trên dải Ngân Hà chia đôi mối tình Ngưu Lang Chức Nữ; mới là cội nguồn đích thực của Hà Đồ trong câu: “Hà xuất Đồ; Lạc xuất thư; thánh nhân tác chi”?
HÀ XUẤT ĐỒ…
Hệ từ viết:”Hà xuất đồ; Lạc xuất thư; thánh nhân tác chi”
Mọi sự suy luận và giải mã sẽ bế tắc; nếu như không có một tư liêu được phát hiện sau đây. Tư liệu này được trích dẫn trong sách:”Chu Dịch – Vũ trụ quan” (Nxb Giáo Dục -1995. Trang 44 - 51) của Giáo sư Lê Văn Quán; như sau:
1.10LẠC THƯ HÀ ĐỒ
Hà đồ và Lạc Thư được phát hiện từ trong quan trắc hiện tượng thiên văn; cấu tạo giản đơn rất tiện cho việc ghi nhớ và lưu truyền. Theo truyền thuyết; Đồ xuất hiện ở sông Hà đời Phục Hy; Thư xuất hiện ở sông Lạc đời Hạ Vũ. Hệ từ thượng; chương thứ XI đã viết:
”Thị cố thiên sinh thần vật; thánh nhân tắc chi; thiên địa biến hóa; thánh nhân hiệu chi; thiên thùy tượng; hiện cát hung; thánh nhân tương chi. Hà xuất Đồ; Lạc xuất thư; thánh nhân tác chi”.
(Cho nên trời sinh ra thần vật, thánh nhân áp dụng theo; trời đất biến hoá, thánh nhân bắt chước; trời bày ra hình tượng, hiện ra sự tốt xấu, thánh nhân phỏng ra ý tượng. Bức đồ hiện ra ở sông Hoàng hà, hình chữ hiện ra ở sông Lạc, thánh nhân áp dụng theo).
Hệ từ thượng, chương IX lại viết:
“Thiên nhất, địa nhị, thiên tam, địa tứ, thiên ngũ, địa lục, thiên thất, địa bát, thiên cửu, địa thập. Thiên số ngũ, địa số ngũ, ngũ vị tương đắc nhi các hữu hợp. Thiên số nhị thập hữu ngũ, địa số tam thập. Phàm thiên địa chi số ngũ thập hữu ngũ. Thử sở dĩ thành biến hoá, nhi hành quỷ thần dã”.
(Trời số 1, đất số 2, trời số 3, đất số 4, trời số 5, đất số 6, trời số 7, đất số 8, trời số 9, đất số 10. Trời có 5 số (1, 3, 5, 7, 9 những số lẻ), đất có 5 số (2, 4, 6, 8, 10 những số chẵn), năm ngôi tương đắc đều hợp nhau. Số trời có 25 (1+3+5+7+9=25), đất có 30 (2+4+6+8+10=30).Tổng số trời đất có 55 (=25+30). Do đó mà thành ra biến hoá và hành động như quỷ thần).
Ở đầu sách “Chu Dịch bản nghĩa”, khi giới thiệu hai hình vẽ Hà đồ, Lạc thư, Chu Hy cũng đã trích dẫn đoạn hệ từ trên để chú thích. Ông viết tiếp, và chỉ ra mọi người thấy:
“Thử Hà đồ chi số dã, Lạc thư cái thủ quy tượng, cố kỳ số đái cửu, lý nhất, tả tam hữu thất, nhi tứ vi kiên, lục bát vi túc”.
(Đó là số Hà đồ, Lạc thư lấy tượng rùa, cho nên số của nó là đầu đội 9, chân đạp 1, bên trái 3, bên phải 7, vai là 2, 4, chân là 6, 8)
Rõ ràng là miêu tả hình Lạc thư.
A. Kết cấu Lạc thư
Như trên đã nói, Lạc thư cấu tạo bởi những vòng tròn đen trắng: đầu đội 9, chân đạp 1, bên trái 3, bên phải 7, vai bên trái 4, vai bên phải 2, chân trái 8, chân phải 6, lưng (ở giữa) 5.Vòng tròn đen là số âm (xem hình vẽ). Con số Lạc thư vốn từ Cửu cung, dùng số biểu diễn hình tượng sao. Thực tế là tượng trời của Lạc thư, có thể xem “Lạc thư cửu tinh đồ” (hình Lạc thư 9 sao) đời xưa truyền lại:
HÌNH LẠC THƯ CỬU TINH ĐỒ
Qua hình vẽ chúng ta thấy phương vị và con số của 9 chòm sao, tức là phương vị và con số của Lạc thư. Cung giữa 5 sao gọi là “toà Ngũ đế”, là đầu ngũ hành, ở giữa và giám ngự bốn phương. Dưới “toà Ngũ đế” là ngôi sao “Bắc cực”, luôn luôn ở phương Bắc, lấy đó định vị trí; Bắc cực đối với phía nam cung là chín sao “Thiên kỷ”. Chính giữa phía đông là ba sao “Hà bắc”. Chính giữa phía tây là bảy sao “Thất công”. Bên trái “Thiên kỷ” là bốn sao “Tứ phụ”, bên phải “Thiên kỷ” là hai sao “Hổ bôn”. Bên trái “Bắc cực” là tám sao “Hoa cái”, bên phải “Bắc cực” là sáu sao “Thiên trù”.
Con số 9 cung của Lạc thư 1, 3, 7, 9 là số lẻ, gọi là số dương: 2, 4 , 6, 8 là số chẵn, gọi là số âm. Số dương là chính, vị trí ở bốn điểm chính giữa, đại biểu khí trời. Số âm là phụ, vị trí ở bốn góc, đại biểu khí đất. Số 5 ở giữa thuộc khí đất (thổ), là tổ của ngũ hành, vị trí ở cung giữa.
Các nhà thuật số cho cung ở giữa là hư số, là số không, để quan trắc và tính toán điểm cơ bản của bốn mùa bát tiết. Con số Lạc thư nhiều ít là tiêu chí biến đổi khí hậu ấm, lạnh, mạnh, yếu của ngày đêm, sớm tối.
B. Kết cấu Hà đồ
Hà đồ lấy 10 số hợp với ngũ phương (năm phương), ngũ hành, âm dương, trời đất. Hình tròn trắng số lẻ, dương, là trời; chấm đen số chẵn, âm; là đất, và lấy trời đất hợp với ngũ hành (xem hình vẽ), kết cấu của nó có mấy đặc điểm như sau:
Số 1 và số 6 cùng dòng họ, ở phương Bắc, vì trời 1 sinh thuỷ, đất 6 thành nước. Số 2 và số 7 là bằng (bè bạn), ở phương nam, vì đất 2 sinh hoả, trời 7 hoá thành lửa. Số 3 và số 8 là bạn bè (hữu), ở phương đông, vị trời 3 sinh mộc, đất 8 hoá thành gỗ. Số 4 và số 9 là đồng đạo (cùng đường), ở phương tây, vì đất 4 sinh kim, trời 9 hoá thành vàng. Số 5 và số 10 trông giữ nhau, ở giữa, vì trời 5 sinh thổ, đất 10 hoá thành đất. Đúng như Chu tử đã nói:
“Thiên dĩ nhất sinh thuỷ nhi địa dĩ lục thành chi. Địa dĩ nhị sinh hoả nhi thiên dĩ thất thành chi. Thiên dĩ tam sinh mộc nhi địa dĩ bát thành chi. Địa dĩ tứ sinh kim nhi thiên dĩ cửu thành chi. Thiên dĩ ngủ sinh thổ nhi địa dĩ lập thành chi”.
(Trời lấy 1 sinh thuỷ mà đất lấy 6 thành nước. Đất lấy 2 sinh hoả mà trời lấy 7 thành lửa. Trời lấy 3 sinh mộc mà đất lấy 8 thành gỗ. Đất lấy 4 sinh kim mà trời lấy 9 thành vàng. Trời lấy 5 sinh thổ mà đất lấy 10 thành đất).
Vẽ thành Hà đồ là căn cứ vào 5 sao lặn, mọc, lấy 55 số diễn hình tượng 5 sao. Năm sao xưa gọi là “ngũ vị”, là 5 hành tinh trên trời : Mộc gọi là “Tuế tinh”, Hoả là “Huỳnh hoặc”, thổ là “Chấn tinh”, kim là “Thái bạch”, thủy là “Thần tinh”. Năm sao vận hành, phân chia bởi nhị thập bát tú (28 ngôi sao), do quỹ đạo của nó không xa đường mặt trời, cho nên người xưa dùng để ghi ngày. Năm sao vận hành, thời tiết đều biến đổi, nói chung theo tuần tự Mộc, Hoả, Thổ, Kim, Thuỷ, kế tiếp nhau xuất hiện ở bầu trời Bắc cực. Mỗi sao đều vận hành 72 ngày, năm sao vận hành tròn vòng trời 360 độ. Đường quỹ đạo của ba sao: Mộc, Hoả, Thổ lớn cho nên ở ngoài, vừa khéo hợp với số 216 thẻ Kiền. Đường quỹ đạo của hai sao Kim, Thuỷ nhỏ cho nên ở trong, vừa khéo hợp với số 144 thẻ Khôn. Vì 5 sao định giờ lặn, mọc có quy luật như dưới đây, cho nên cấu tạo thành hình Hà đồ như đã giới thiệu ở trên .
* Hằng ngày sao Thuỷ: Giờ thứ 1 (giờ Tý) và giờ thứ 6 (giờ tỵ) xuất hiện ở phương Bắc. - Hàng tháng ngày 1, 6; 1; 16; 21; 26; mặt Trời, mặt Trăng gặp sao Thuỷ ở phương Bắc. -- Hằng năm: Tháng 11, tháng 6 lúc hoàng hôn thấy ở phương Bắc.
Cho nên nói “Trời 1 sinh thuỷ, đất 6 mà thành nước”.
* Hàng ngày sao Hoả: Giờ thứ 2 (giờ Sửu) và giờ thứ 7 (giờ Ngọ) xuất hiện ở phương nam.
- Hàng tháng ngày 2, 7 (tức là mồng 2, mồng 7, 12; 17; …) mặt Trời, mặt Trăng gặp sao Hoả ở phương Nam.
- Hàng năm tháng 2, tháng 7, lúc hoàng hôn thấy ở phương Nam.
Cho nên nói: “Địa nhị sinh hoả, thiên thất thành chi” (đất hai sinh hoả, trời bảy thành lửa).
* Hằng ngày sao Mộc: Giờ thứ ba (giờ Dần) và giờ thứ 8 (giờ Mùi) xuất hiện ở phương Đông.
- Hàng tháng ngày 3, ngày 8 (mồng ba, mồng 8, mười ba, mười tám…) mặt Trời, mặt Trăng gặp sao Mộc ở phương Đông.
- Hàng năm tháng 3, tháng 8, lúc hoàng hôn thấy ở phương Đông.
Cho nên nói “Trời ba sinh mộc, đất tám thành gỗ”.
Hằng ngày sao Kim giờ thứ 4 (giờ mão) và giờ thứ 9 (giờ thân) xuất hiện ở phương Tây; - Hằng tháng ngày 4, 9 (mồng 4, mồng 9…) mặt trời, mặt trăng gặp sao kim ở phương Tây.
- Hằng năm tháng 4, tháng 9, lúc hoàng hôn thấy ở phương Tây.
Cho nên nói “Đất 4 sinh Kim, trời 9 hoá thành vàng”.
* Hằng ngày sao Thổ giờ thứ 5 (giờ Thìn) và giờ thứ 10 (giờ Dậu) xuất hiện ở giữa.
- Hằng tháng, ngày 5, 10 (mồng 5, mồng 10…) mặt Trời, mặt Trăng gặp sao Thổ ở giữa.
- Hằng năm tháng 5, tháng 10 lúc hoàng hôn thấy ở giữa trời.
Cho nên nói: “Trời 5 sinh thổ, đất 10 hoá thành đất”.
Qua đó, có thể thấy, Hà đồ không phải do con người tuỳ ý vẽ vạch. Vạch ra như vậy, là căn cứ vào tượng trời, năm sao lặn và mọc, đó cũng là nguồn gốc của ngũ hành: Thuỷ, Hoả, Thổ, Kim, Mộc. Vì hằng năm tháng 11 trước tiết Đông chí, sao Thuỷ thấy ở phương Bắc, đang lúc giao thời mùa đông, muôn vật ngủ đông (ở ẩn), trên mặt đất chỉ có băng tuyết và nước. Khái niệm hành “Thuỷ” hình thành là như vậy.
Tháng 7, sau tiết Hạ chí sao Hoả thấy ở phương Nam, đang lúc giao thời mùa hè, trên mặt đất khô nóng. Khái niệm hành “Hoả” ra đời là như vậy.
Tháng 3 Xuân phân, sao Mộc thấy ở phương Đông, đương lúc giữa thời mùa xuân, cây cỏ nảy mầm sinh trưởng. Khái niệm hành “Mộc” hình thành là như vậy.
Tháng 9 Thu phân, sao Kim thấy ở phương Tây, đời xưa lấy kim loại tôi luyện thành binh khí, cho nên lấy “Kim”biểu thị mùa thu khí trời sát phạt. Khái niệm hành “Kim” hình thành là như vậy.
Tháng năm sao Thổ thấy ở giữa trời, biểu thị lúc bấy giờ đất ẩm thấp, Mộc, Hoả, Kim, Thuỷ đều lấy cái đó làm điểm giữa, sao Mộc, Hoả, Kim, Thuỷ lặn mọc dẫn đến khi hậu bốn mùa biến đổi, đều là quan trắc từ mặt đất, khái niệm hành “Thổ” hình thành là như vậy.
Trên đây; chúng tôi đề cập kết cấu Hà đồ và Lạc thư theo thiên văn.
Tôi trích nguyên văn để thể hiện rõ ý của anh, đồng thời cũng giữ nguyên màu chữ, thống nhất với nguyên bản anh đã viết.
Thân ái.